Thứ bảy, ngày 09 tháng 11 năm 2024

Ngày 4 tháng 10

Thánh Phan-xi-cô Át-xi-di, phó tế

lễ kính

Trong phụng vụ của Dòng, ngày lễ hôm nay biểu lộ mối dây huynh đệ đặc biệt giữa Anh Em Hèn Mọn và Anh Em Giảng Thuyết. Bởi vì hai thánh Tổ Phụ đã từng gắn bó với nhau trong sứ vụ lịch sử để xây dựng Giáo hội. Thánh nữ Ca-ta-ri-na Xi-ê-na đã nhắc nhở đến hai vị một cách rất văn hoa : “Các ngài quả là hai cột trụ chống đỡ Giáo hội, thánh Phan-xi-cô bằng đức khó nghèo, còn thánh Đa Minh bằng kiến thức” (Đối thoại 158). Đi theo cùng một con đường ấy, chúng ta trung thành học “trở nên những môn đệ của hai bậc thầy rất khiêm tốn ấy” (Celano, Vita, 2a, 149).

Sống đồng thời với Thánh Phụ Đa Minh, thánh Phan-xi-cô (1182-1226) đã trở nên giống Chúa Ki-tô, đã cố gắng tập noi gương Chúa khó nghèo bằng nếp sống giản dị lạ lùng, và noi gương Chúa chịu treo trên thập giá bằng đức ái phi thường. Sống theo đường lối Tin Mừng, thánh nhân đã thu phục được nhiều anh chị em, và vui vẻ khuyến khích họ yêu quý đức khó nghèo, ca tụng Đấng Hoá Công, và tuân phục Hội Thánh. Thánh nhân đã được Chúa in năm dấu thánh (1224).

Ngày 3 tháng 10 năm 1226, người hân hoan đón nhận “Chị Chết”. Đức Ghê-gô-ri-ô IX đã tôn phong người lên bậc hiển thánh.

Bài đọc 1 Hc 50,1.4-11.13-14.22-24

Như mặt trời toả sáng, người cũng rạng ngời trong Đền Thờ Thiên Chúa

Lời Chúa trong sách Huấn ca.

Ông Si-môn là thượng tế, con ông Ô-ni-a.
Trong cuộc đời,
chính ông đã trùng tu ngôi nhà Thiên Chúa,
lúc sinh thời, đã củng cố Đền Thờ.

Vì lo lắng muốn bảo vệ dân khỏi bị tàn phá,
ông đã củng cố thành phòng khi bị vây hãm.

Ông uy nghi biết mấy giữa đám dân,
khi ông bước ra khỏi Nơi Cực Thánh !

Ông tựa sao mai ngời sáng giữa tầng mây,
như vầng nguyệt vào những đêm rằm,
như thái dương chói lọi
trên Đền Thờ Đấng Tối Cao,
như cầu vồng rực rỡ giữa đám mây huy hoàng.

Ông ví như đoá hồng tươi nở giữa mùa xuân,
như cây huệ mọc bên bờ nước,
tựa chồi non Li-băng giữa mùa hè.

Ông khác nào hương trầm
nghi ngút cháy trong lư,
tựa bình vàng nguyên khối cẩn đá quý đủ loại.

Ông tựa cây ô-liu nặng trĩu quả ngon,
như cây bách vươn cao đến tận ngàn mây thẳm.

Khi ông nhận lấy lễ phục huy hoàng,
và khoác áo choàng lộng lẫy,
khi ông tiến lên bàn thánh,
thì ông làm cho Nơi Thánh
được rạng ngời vinh quang.

là toàn thể con cái A-ha-ron
với lễ phục huy hoàng,
tay mang các lễ phẩm tiến dâng lên Đức Chúa,
trước mặt toàn thể cộng đồng Ít-ra-en.

Trong lúc cử hành các nghi lễ tại bàn thờ,
ông sắp xếp các lễ phẩm
dâng kính Đấng Tối Cao Toàn Năng.

Giờ đây hãy chúc tụng Thiên Chúa muôn loài,
Đấng đã làm những điều vĩ đại ở khắp nơi,
Đấng đã làm cho đời sống chúng ta nên cao quý
ngay từ thuở ta còn trong lòng mẹ,
và đối xử với chúng ta
theo lòng lân tuất của Người.

Xin Thiên Chúa ban cho tâm hồn chúng ta
niềm hoan hỷ,
và cho đời chúng ta được hưởng phúc bình an,
tại đất Ít-ra-en đến muôn thuở muôn đời !

Xin Thiên Chúa hằng tỏ lòng lân tuất
với chúng ta,
và giải cứu chúng ta
trong những ngày chúng ta đang sống !

Xướng đáp       1 Cr 2,4.2

X

Tôi nói, tôi giảng mà không dùng lời lẽ hấp dẫn,

*

Cả hai vị đã dạy chúng con am tường luật Chúa.

Đ

Vì tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giê-su Ki-tô, mà là Đức Giê-su Ki-tô chịu đóng đinh vào thập giá. *

Bài đọc 2 (1/3)

Đấng Cứu Thế đã thúc đẩy các Anh Em Hèn Mọn và Anh Em Giảng Thuyết phục vụ ơn cứu độ

Trích thư cha Hum-bê-tô Rô-man từ Tổng hội gửi cho toàn Dòng.

Tu sĩ Gio-an, Bề trên Tổng Quyền Dòng Anh Em Hèn Mọn, và tu sĩ Hum-bê-tô, đầy tớ vô dụng của Dòng Anh Em Giảng Thuyết đồng chào thăm hết thảy các Anh Em Hèn Mọn và Anh Em Giảng Thuyết rất yêu dấu trong Chúa Giê-su Ki-tô, rải rác khắp hoàn cầu, cầu chúc anh em sống xứng đáng và vẻ vang với ơn gọi thánh thiện của mình.

Chúa Cứu Thế yêu thương nhân loại, không muốn người nào hư mất, nên ngay từ khi nhân loại vừa sa phạm, Chúa đã không ngừng nhờ nhiều thừa tác viên mang đủ loại phương dược đến mỗi thế hệ. Vào những ngày sau hết này, tức là vào thời cuối cùng, Chúa khiến xuất hiện hai Dòng chúng ta để phục vụ ơn cứu độ, như mọ người tin chắc như vậy. Chúa gọi nhiều người vào Dòng và ban cho họ những thiên ân phong phú, nhờ đó họ có thể hoạt động hữu hiệu bằng lời nói cũng như gương sáng cho phần rỗi riêng của mình và phần rỗi người khác.

Để tôn vinh Danh Chúa, chứ không phải để làm rạng danh chúng ta, chúng tôi nói : hai vị là hai bầu sáng lớn, dùng ánh sáng thiên cung chiếu soi cho những ai ngồi trong bóng tối tử thần ở khắp mặt đất.

Các ngài là hai chiếc kèn bạc của Mô-sê đích thực, là Đức Ki-tô Giê-su, Thiên Chúa chúng ta, nhờ tác vụ của các ngài, Chúa đã tập họp hằng hà sa số dân chúng để phụng thờ Người.

Các ngài là hai thầy sốt mến đầy thông thái, diện đối diện nhưng tâm đầu ý hợp, cùng phủ cánh trên hòm bia cầu phước, nhưng luôn sẵn sàng vâng phục bay lượn trên khắp muôn dân để gieo vãi Tin Mừng cứu độ.

Các ngài là bầu sữa của Hiền Thê luôn tuôn chảy để nuôi dưỡng các trẻ thơ trong Chúa Ki-tô, giúp họ tăng triển trong ơn cứu độ.

Các ngài là hai vị được xức dầu đứng hầu cận Chúa Tể vũ hoàn, sẵn sàng phụng lệnh Chúa, thực thi sứ mạng, tuỳ ý người phái đi bất cứ nơi đâu.

Các ngài là hai chứng tá của Chúa Ki-tô, mặc áo thô, đã thuyết giảng và làm chứng cho chân lý.

Các ngài là hai ngôi sao sáng ngời, theo lời sấm của Xi-bi-la, có mặt bốn con vật xuất hiện vào thời sau hết, lớn tiếng kêu tên Con Chiên trong hướng khiêm nhường và khó nghèo tự nguyện.

Hãy nghĩ xem, anh em rất thân mến, hãy nghĩ sự chân thành quý mến nhau phải dồi dào chừng nào giữa anh em, những người mà Mẹ Giáo hội đã sinh ra cùng một thời, những người mà tình yêu bằng hữu đã quy định vào cùng một việc, nghĩa là, cùng nhau mưu phần rỗi các linh hồn, những người mà lối sống có khác nhau đôi chút lại làm cho giống nhau đến độ chúng ta phải yêu nhau như những súc vật đồng loại.

Sau hết, làm sao người đời nhận biết chúng ta là môn đệ đích thực của Chúa Ki-tô, nếu chúng ta không có tình tương thân tương ái rõ ràng ?

Làm sao chúng ta dùng lời giảng gieo vào lòng người khác tình tương thân tương ái, mà tiên vàn ai cũng phải có, nếu tình thương ấy ở nơi chúng ta lại bị tổn thương hay rất mỏng manh ?

Làm sao chúng ta dương đầu nổi với biết bao cơn bách hại hòng đến, nếu chúng ta chia rẽ nhau vì một sự xích mích nào đó ?

Ôi, hai thánh Tổ Phụ chúng ta, Phan-xi-cô và Đa Minh, cũng như các anh em tiên khởi, đã để lại cho chúng ta mẫu gương sáng ngời chừng nào về tình hoà thuận và thương yêu nhau. Các ngài suốt đời những yêu quý nhau thắm thiết, tỏ cho nhau những dấu chỉ bác ái chân thành, coi nhau như thiên thần của Chúa, tiếp đón nhau như đón tiếp Chúa Ki-tô, tôn trọng lẫn nhau, cùng nhau vui mừng vì những thăng tiến, ca tụng nhau, cổ võ những ích lợi của nhau, và hết sức thận trọng khôn ngoan để khỏi gây gương xấu và xáo trộn cho nhau.

Xướng đáp x. Tv 116,1

X

Lạy Chúa, Thánh Phụ Phan-xi-cô tựa thiên thần sốt mến, và thánh Đa Minh đầy nhiệt huyết tông đồ.

*

Cả hai vị đã dạy chúng con am tường luật Chúa.

Đ

Muôn nước hỡi, nào ca tụng Chúa, ngàn dân ơi, hãy ngợi khen Người. *

Bài đọc 2 (2/3)

Thánh Đa Minh và thánh Phan-xi-cô là hai cột trụ trong Hội Thánh

Trích sách Đối thoại của thánh Ca-ta-ri-na Xi-ê-na, trinh nữ.

Đời tu trì là do Chúa Thánh Thần thiết lập như con thuyền nhỏ để tiếp nhận những linh hồn muốn tiến tới sự hoàn thiện, và dẫn đưa họ đến bến cứu độ. Chúa Thánh Thần là chủ thuyền, Người không hề hấn gì khi có tu sĩ nào bất trung không giữ luật Dòng. Tu sĩ ấy không gây hại cho thuyền, nhưng lại gây hại cho chính mình. Quả thực, người hoa tiêu, vì lỗi lầm sơ suất, có thể đưa thuyền vào giữa cơn sóng gió. Đó là những chủ chăn, những Bề trên trắc nết và đáng thương hại, mặc dầu đã được chủ thuyền cắt đặt. Còn chính con thuyền luôn luôn rất đáng chuộng đáng yêu đến độ lưỡi con không đủ khả năng diễn tả.

Trong con thuyền đó có biết bao luật lệ thánh thiện phong phú đã được san định một cách khôn ngoan sáng suốt tuyệt vời bởi những vị đã trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Kìa con hãy xem thánh Biển Đức đã biết thận trọng tổ chức con thuyền của mình chu đáo như thế nào.

Kìa con xem thánh Phan-xi-cô đã trang bị con thuyền Dòng mình cách hoàn hảo với hương thơm khó nghèo và chuỗi ngọc nhân đức thế nào ! Người đã khéo hướng các tu sĩ của mình trên đường hoàn thiện tới cao độ dường nào ! Chính Người là vị tiên phong trên con đường ấy. Và nếu Người đã chọn đức thanh bần chân thực và thánh thiện như bạn trăm năm cho anh em, thì chính Người đã chọn cho mình trước. Người chọn nếp sống hèn mọn, không theo ý mình, cũng chẳng muốn làm đẹp lòng thụ tạo nào ngoài ý Cha.

Hơn nữa, người còn muốn thế gian khinh rẻ mình, người khổ chế thân xác, hãm dẹp ý riêng, người chuốc lấy nhục nhã, đau khổ, sỉ nhục vì yêu mến Con Chiên khiêm hạ, tự nguyện chịu đóng đinh và chịu treo trên thập giá cùng Con Chiên với lòng mến thiết tha, đến độ thương tích của Đấng là chân lý đã xuất hiện trên thân thể người. Như thế, tình thắm thiết của linh hồn tỏ hiện nơi thân thể người. Đó là cách thức người chỉ dạy con đường hoàn thiện của người cho các anh em.

Nếu như con hỏi cha : “Các Dòng khác không đặt nền trên đức thanh bần sao ?”. Cha trả lời như sau : “Có, nhưng không phải là đặc điểm chính của mọi Dòng, mặc dầu tất cả đều được thiết lập trên nền tảng đó.” Cũng giống như trong vấn đề các nhân đức : mọi nhân đức đều có sức sống nhờ đức ái, nhưng người này có nhân đức riêng biệt này, người khác có nhân đức riêng biệt khác.

Cũng thế, thanh bần đích thực là nhân đức riêng biệt của thánh Phan-xi-cô hèn mọn, vì người yêu quý đặc biệt, người coi đức khó nghèo như một bộ phận trong con thuyền của người. Người đặt kỷ luật rất nghiêm ngặt cho lớp người hoàn hảo, cho thiếu số tuyệt hảo, chứ không cho người tầm thường.

Bây giờ con hãy xem con thuyền của thánh Đa Minh là Tổ Phụ của con và là con yêu quý của Cha. Người đã tổ chức con thuyền của mình một cách thật tốt đẹp, người muốn cho con cái chuyên dùng ánh sáng kiến thức mà làm vinh danh Cha và mưu phần rỗi các linh hồn. Người đã muốn ánh sáng đó là nguyên lý cơ bản cho hành động của người.

Nhưng không vì thế mà người bỏ đức thanh bần đích thực tự nguyện. Hơn thế nữa, người đã sống khó nghèo, và để chứng minh rằng mình yêu quý đức khó nghèo và điều nghịch đức ấy không làm hài lòng người, người đã trối lại cho con cái như gia sản lời rằng : nếu họ, dù cá nhân hay cộng đoàn, giữ hoặc sở hữu của gì, tất sẽ bị người hoặc chính Cha chúc dữ. Đấy không phải là chứng cớ cho thấy người đã chọn bà hoàng khó nghèo như bạn trăm năm đó sao ?

Nhưng người đã nhận ánh sáng kiến thức như đối tượng riêng biệt để tiêu diệt những lạc thuyết đang hoành hành thời ấy. Chính người đã nhận lãnh sứ vụ của Con Một Cha : trong thế giới, người đích thực là một tông đồ, đã loan truyền lời Cha rất chính xác và minh bạch, đánh tan bóng tối tăm và đem lại ánh sáng. Quả thực, người là luồng sáng Cha ban cho thế gian, qua Đức Ma-ri-a, chiếu giãi vào nhiệm thể Hội Thánh để tiểu trừ lạc giáo.

Đấy con hãy xem những tay thợ lành nghề mà người Cha này đã sai đến vườn nho canh tác, trừ diệt gai góc các nết xấu và vun trồng các nhân đức. Quả thật, thánh Đa Minh và thánh Phan-xi-cô là hai cột trụ trong Hội Thánh. Thánh Phan-xi-cô với đức thanh bần, và thánh Đa Minh với sự thông thái như đặc điểm riêng biệt.

Xướng đáp Gr 11,4 ; Mt 11,29 ; 1 Cr 11,1

X

Hãy nghe lời tôi nói, và hãy thực hành hết thảy mọi điều tôi truyền cho anh em.

*

Và tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng.

Đ

Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô. *

Bài đọc 2 (3/3)

Chúng ta hãy đơn sơ, khiêm tốn và tinh tuyền

Trích thư thánh Phan-xi-cô Át-xi-di gửi một tín hữu.

Cha chí tôn đã sai tổng lãnh thiên sứ Gáp-ri-en đến truyền tin cho Đức Trinh nữ Ma-ri-a hay : Ngôi Lời xứng đáng, thánh thiện, uy nghi của Cha sẽ xuống thế mặc lấy xác thịt loài người yếu hèn chúng ta từ lòng Trinh Nữ. Người là Đấng giàu sang hơn hết đã khấng chọn lấy thân phận khó nghèo cùng với Mẹ rất thánh của Người. Và khi tới giờ khổ nạn, Người đã cùng môn đệ mừng lễ Vượt Qua. Rồi Người cầu nguyện cùng Cha rằng : Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén này.

Tuy nhiên, Người hoàn toàn đặt ý mình trong ý Cha Người. Mà ý của Cha là muốn cho Con rất tốt lành, vinh hiển, mà Người đã ban cho chúng ta và đã sinh ra vì chúng ta, nay phải nhờ Máu Mình mà tự hiến làm hy lễ, và nên lễ toàn thiêu trên bàn thờ thập giá, không phải cho chính Người, vì Người là Đấng tác thành mọi sự, nhưng vì tội lỗi của chúng ta, để trối lại cho chúng ta một gương mẫu, ngõ hầu chúng ta dõi theo vết chân Người. Chúa Cha muốn tất cả chúng ta được cứu vớt nhờ Người, và chúng ta hãy nhận lãnh Người với tâm hồn trong sạch và thân xác tinh tuyền.

Thật hạnh phúc cho những ai yêu mến Chúa và vâng giữ lời Người dạy bảo trong Tin Mừng : Con hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa con hết lòng, hết linh hồn, và yêu thương anh em như chính mình ! Vậy chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa và tôn thờ Người với tâm hồn trong sạch và trí tinh tuyền, vì đó là điều Người mong muốn khi Người nói : Những kẻ thờ phượng chân thật sẽ thờ phượng Cha trong thần khí và sự thật. Bởi vì phàm ai thờ phượng Thiên Chúa thì phải thờ phượng trong tinh thần và chân lý : vậy chúng ta hãy dâng lời ca ngợi và khẩn nguyện cả ngày đêm rằng : Lạy Cha chúng con ở trên trời, bởi vì chúng ta phải cầu nguyện liên lỉ và không bao giờ ngừng.

Đàng khác, chúng ta phải sinh quả phúc đức, xứng với lòng hối cải. Rồi phải yêu anh em như chính mình. Hãy có lòng bác ái và khiêm nhường ; hãy rộng tay bố thí, vì việc bố thí sẽ tẩy sạch tâm hồn khỏi các vết nhơ tội lỗi. Quả thật, con người sẽ mất hết, bỏ hết tất cả lại ở đời này, và chỉ mang theo giá trị của lòng bác ái và những của mà họ đã bố thí, để được Thiên Chúa ân thưởng xứng đáng.

Chúng ta không nên khôn ngoan và thông thái theo xác thịt, nhưng tốt hơn, chúng ta phải đơn sơ, khiêm tốn và tinh tuyền. Không bao giờ được mong ước ở trên người khác, nhưng tốt hơn, phải phục vụ và tùng phục mọi người vì Thiên Chúa. Phàm ai thực hành như vậy và bền vững đến cùng sẽ được Chúa Thánh Thần ngự xuống trên mình, cư ngụ lại nơi mình, và sẽ là con của Cha trên trời, làm các việc của Cha, và sẽ là bạn trăm năm, là anh em, là Thân Mẫu của Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta.          

Xướng đáp Mt 5,3-4.6

X

Phúc thay ai có tinh thần nghèo khó, vì họ sẽ được vào Nước Trời.

*

Phúc thay ai hiền hoà, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.

Đ

Phúc thay ai khao khát sống cuộc đời chính trực, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho phỉ chí toại lòng. *

Lời nguyện

Lạy Chúa, Chúa đã soi sáng cho thánh Phan-xi-cô chọn cuộc sống hèn mọn, khó nghèo để trở nên hình ảnh sống động của Đức Ki-tô. Xin cho chúng con hằng noi gương thánh nhân mà thiết tha gắn bó cùng Chúa, và hăm hở bước theo Đức Ki-tô, lòng chan chứa an vui và đầy tràn yêu mến. Chúng con cầu xin