Thứ sáu, ngày 29 tháng 11 năm 2024

Ngày 8 tháng 6

Chân phước Đi-a-na và Xê-xi-li-a, trinh nữ

lễ nhớ tự do

Đi-a-na An-đa-lô sinh tại Bô-lô-ni-a, khoảng đầu thế kỷ XIII, là người đã giúp chân phước Rê-gi-nan-đô xây cất tu viện Bô-lô-ni-a. Năm 1219, khi Thánh Phụ Đa Minh đến Bô-lô-ni-a, Đi-a-na cùng với vài thiếu nữ khác đã quyết định sống đời tu trì trong tay Thánh Phụ. Nhưng thân nhân đã gây nhiều phiền hà đến độ đánh người gẫy một xương sườn. Tuy vậy, người đã lướt thắng tất cả, và vào tu trong nữ đan viện thánh A-nê do chân phước Giô-đa-nô Sa-xô-ni-a thành lập. Tại đây, trinh nữ đã sống như một người mẹ đích thực đối với mọi chị em. Trinh nữ qua đời năm 1236.

Ngày nay, chúng ta còn giữ được 50 bức thư chân phước Giô-đa-nô gửi cho trinh nữ. Đây là tài liệu quý giá về linh đạo và tình huynh đệ giữa anh chị em trong gia đình Đa Minh. Ngày 8-8-1888, Đức Lê-ô XIII đã chuẩn y việc tôn kính người.

Còn chân phước Xê-xi-li-a sinh tại Rô-ma, cũng vào khoảng đầu thế kỷ XIII. Năm 1221, trinh nữ được chuyển từ tu viện “Đức Ma-ri-a trong đền thánh” đến nữ đan viện Xít-tô. Tại đây, người được tiếp xúc nhiều với thánh Đa Minh, nên đã mô tả rất trung thực chân dung và tinh thần của Thánh Phụ. Về sau, khoảng cuối năm 1223, hoặc đầu năm 1224, Đức Hô-nô-ri-ô III đã phái người và 3 nữ tu khác đến Bô-lô-ni-a, truyền thông tinh thần Thánh Phụ Đa Minh cho các chị em tại đan viện thánh A-nê do chân phước Đi-a-na xây cất. Người qua đời tại nữ đan viện này năm 1290. Ngày 24-12-1891, Đức Lê-ô XII đã chuẩn y việc tôn kính người.

Bài đọc 2 (1/2)

Hãy vun trồng đức hạnh

Trích thư của chân phước Giô-đa-nô Sa-xô-ni-a, linh mục.

[Tu sĩ Giô-đa-nô, Dòng Anh Em Giảng Thuyết, đầy tớ vô dụng, gửi nữ tu Đi-a-na rất thân yêu trong Chúa Ki-tô. Nguyện chúc con luôn an hưởng niềm vui thiên quốc].

Con rất thân yêu, nhờ ơn Chúa và nhờ lời con cùng với chị em cầu nguyện, cha đã đến Pa-ri an toàn. Giờ đây, cha cố tìm cách gửi thư này cho con, để khi đọc thư, ít nhất con được an ủi đôi chút, bù lại những gì mất mát do việc tạm vắng và không trực tiếp đàm đạo với con được.

Con thân yêu, cha muốn các con cái của cha, là con và các chị em trong đan viện, cố gắng đừng bận tâm đến nguyên những đau khổ thể xác, nhưng tốt hơn, hằng rèn luyện nhân đức, cố găng sống thánh thiện, là điều có thể thay thế tất cả, như lời thánh Tông Đồ dạy. Mong rằng con luôn ngưỡng vọng cõi phúc lộc của các công dân, hạnh phúc như các thánh trên trời, tìm tòi kho tàng vinh quang chữa đầy mọi hân hoan vui sướng, mong tới nơi rạng ngời vẻ đẹp khôn sánh, và tìm về vương quốc Thiên Chúa là nơi cư ngụ xứng với loài người, vì đã được tạo thành giống hình ảnh Thiên Chúa.

Tâm hồn hôn thê phải luôn năng tưởng nhớ hôn phu, phải chăm chỉ tô thắm vẻ đẹp, tẩy trừ mọi xấu xa và nhơ nhớp, nhằm làm đẹp ý Người, kẻo có gì, dù rất nhỏ và mình không ngờ tới, lại có thể làm chướng đôi mắt thánh thiện của Đấng Lang Quân.

Ước mong các con trinh sạch, đời sống trong trắng và đức hạnh vững vàng. Ước mong các con sống bình an hoà thuận, giữ vững đức ái và thành thực khiêm nhường để gìn giữ mọi điều tốt. Như thế, trong khi tâm hồn các con vui hưởng phúc đức, thì Con Thiên Chúa, Đấng đáng chúc tụng đến muôn thuở muôn đời cũng thấy lòng mình vui thoả. Ước mong được như vậy. Thân ái chào các con.

Thầy Ác-an-giê-lô và thầy Gio-an gửi lời thăm con. Nhờ con chuyển lời thăm của cha đến các chị giúp trong tu viện thánh A-nê, tức là các gia nhân và các bà đã là bạn bè quen thuộc của tu viện. Thân ái chào con.

Xướng đáp                                   1 Pr 3,8.9 ; Rm 12,10.11

X

Hết thảy hãy đồng tâm nhất trí, thông cảm với nhau, yêu thương nhau như anh em, ăn ở nhân hậu và khiêm tốn.

*

Vì anh em được Thiên Chúa kêu gọi chính là để thừa hưởng lời chúc phúc. (Ha-lê-lui-a).

Đ

Hãy thương mến nhau với tình huynh đệ, cư xử với nhau theo lòng kính trọng và luôn phục vụ Thiên Chúa. *

     

Bài đọc 2 (2/2)

Đi-a-na tận tình mộ mến thánh Đa Minh

Trích biên niên sử của một tác giả đồng thời về việc lập nữ đan viện thánh A-nê tại Bô-lô-ni-a.

(Có thể đọc phần A hoặc B, rồi kết thúc bằng phần C)

(A)

Năm 1218, từ Rô-ma, thánh Đa Minh sai mấy anh em Giảng Thuyết đến Bô-lô-ni-a. Đến nơi, anh em xin linh mục Quản Đốc Rô-đun-phô nhường cho mình nhà thờ thánh Ni-cô-la. Nhà thờ này toạ lạc ở nơi được mệnh danh là Gần Vườn Nho. Nơi ấy thuộc quyền sở hữu của ông An-đa-lô, thân phục của một thiếu nữ rất sang trọng, tiếng tăm lừng lẫy, là Đi-a-na. Ông An-đa-lô không muốn nhường nơi ấy cho anh em, nhưng vì lời thỉnh cầu của Đi-a-na, sau này là vị sáng lập nữ đan viện thánh A-nê, ông mới bằng lòng. Tại đây, anh em đã xây tu viện, và nhờ ơn Chúa, các tu sĩ ngày càng thêm đông.

Trong khi đó, danh sư Rê-gi-nan-đô đến Bô-lô-ni-a và hăng say thuyết giảng Lời Chúa. Đi-a-na được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, khởi sự khinh chê mọi sự sang trọng phù vân thế trần, và năng giao tiếp, đàm đạo với Anh Em Giảng Thuyết. Vì thế, khi thánh Đa Minh đến Bô-lô-ni-a, chị hết sức mộ mến thánh nhân và bàn hỏi việc linh hồn với người. Ít lâu sau, chị tuyên khấn trong tay thánh nhân. Theo gương chị Đi-a-na, nhiều phụ nữ sang trọng và nhiều bà quý phái tại Bô-lô-ni-a cũng bắt đầu bàn việc linh hồn với các Anh Em Giảng Thuyết. Từ đó, nhiều nhà hiệp sĩ và đồng huyết tộc với các bà được thức tỉnh, cũng sốt sắng và kính trọng các Anh Em.

Trong lúc đó, chị Đi-a-na không quên lời mình đã khấn, nên bàn luận với thánh Đa Minh xem làm cách nào để thực hiện lời khấn. Một hôm, thánh Đa Minh triệu tập Anh Em để hỏi ý kiến về việc xây cho các bà một căn nhà được mệnh danh và thật sự là của Dòng. Mỗi anh em bày tỏ ý kiến của mình cho thánh nhân hay, còn chính người, như thường lệ, người chăm chú cầu nguyện. Hôm khác nữa, sau khi đã cầu nguyện, người chủ toạ công hội và nói : “Anh em thân mến, dứt khoát phải xây nhà cho các bà, dầu có phải đình chỉ ngôi nhà của chúng ta đây.” Khi rời khỏi Bô-lô-ni-a, thánh Đa Minh đã trao phó công việc cho bốn anh em, tức danh sư Phao-lô xứ Hung-ga-ri, cha Goa-la – sau làm Giám mục thành Bơ-ri-xi-a ; cha Ven-tu-ra Vê-rô-na – sau làm Bề trên Tỉnh, và cha Rô-đun-phô Pha-ven-xê.

(B)

Đi-a-na cư ngụ tại nhà thân phụ, thân xác ở đó nhưng lòng trí ở nơi khác. Vì sợ song thân, chị không thể thực hiện được điều chị mong ước và đã hứa với thánh Đa Minh, tức là xây cho các phụ nữ một căn nhà được mệnh danh và thật sự là của Dòng. Một hôm, chị nói mình muốn đi thăm đan viện ở Rôn-da-nô. Với tất cả sự huy hoàng lộng lẫy, chị đi đến đan viện, rồi đột ngột xin nhận lãnh tu phục. Một số đông phụ nữ cùng đi với chị, thấy vậy, liền loan tin khắp thành Bô-lô-ni-a. Bỗng nhiên, đông đảo dân chúng ùa đến, xông vào đan viện dùng bạo lực kéo chị ra, đến nỗi làm gãy một xương sườn của chị và chị phải nằm liệt hầu như trọn một năm tại nhà thân phụ.

Lúc đó, thánh Đa Minh đang ở Bô-lô-ni-a, nghe biết những sỉ nhục chị phải chịu, người rất thông cảm với chị và lén gửi thư an ủi chị, vì song thân chị không cho phép chị nói chuyện với người khác khi không có người trong gia đình hiện diện.

Trong thời gian ấy, thánh Đa Minh về hưởng vĩnh phúc muôn đời, còn chị Đi-a-na ít lâu sau cũng bình phục và trốn đến đan viện nói trên. Song thân không hy vọng giữ chị được nên cũng đành lòng để chị đi. Chị ở lại đan viện từ lễ Các Thánh cho đến tuần bát nhật lễ Chúa Thăng Thiên.

Giữa tuần ấy, cha đáng kính Giô-đa-nô, lúc đó còn là Bề trên Tỉnh Dòng Lôm-bác-đi-a, cùng với các anh em đã được thánh Đa Minh uỷ nhiệm, bắt tay vào việc, trung thành giúp đỡ chị Đi-a-na để hoàn thành công việc chị đã mong ước từ lâu.

(C)

Xây được một nhà nhỏ rồi, năm 1223, trong tuần bát nhật lễ Chúa Thăng Thiên, các Anh Em đến Bô-lô-ni-a dẫn chị Đi-a-na về nhà ấy cùng với bốn chị em khác. Sau lễ kính hai thánh Tông Đồ Phê-rô và Phao-lô, các chị em lãnh tu phục Dòng bởi chính tay cha Bề trên Tổng Quyền Giô-đa-nô.

Được phép của Đức Giáo Hoàng, cha Bề trên Tổng Quyền đáng kính nhớ đã muốn gọi bốn chị từ đan viện thánh Xít-tô đến Bô-lô-ni-a để huấn luyện cho các chị em về nếp sống tu trì. Vậy bốn chị trước đây tuyên khấn trong tay Thánh Phụ Đa Minh và lãnh nhận tu phục do người ban, đã đến đan viện thánh A-nê. Các chị này đã chung sống với các chị em ở Bô-lô-ni-a cho đến ngày ly trần, tâm hồn tràn đầy sức sống thánh thiện, một trong bốn chị em đó là chị Xê-xi-li-a, hiện vẫn còn sống.

Xướng đáp

X

Tôi đã khinh chê vương quốc trần gian và mọi vinh ba trần gian, vì tình yêu Đức Giê-su Ki-tô, Chúa của tôi,

*

Đấng tôi đã thấy, đã yêu, đã tin và đã quý mến. (Ha-lê-lui-a).

Đ

Lòng trào dâng những lời cảm tú, miệng ngâm thơ mừng hát Thánh Quân. *

Lời nguyện
Lạy Chúa, xin cho chúng con được vui mừng trong ngày lễ các chân phước Đi-a-na và Xê-xi-li-a. Nhờ lời chuyển cầu và gương sáng của các ngài, xin cho chúng con biết thiết tha sống tình huynh đệ và chân thành tìm kiếm chân lý. Chúng con cầu xin